Thứ Tư, 12 tháng 10, 2016

TÌM HIỂU ƠN GỌI CỦA NGƯỜI THI HÀNH TÁC VỤ CÔNG BỐ LỜI CHÚA

NGƯỜI ĐỌC SÁCH THÁNH TRONG THÁNH LỄ

          Người đọc Sách Thánh hay còn được gọi là đọc viên Sách Thánh là người thi hành tác vụ công bố Lời Chúa (qua các bài đọc) trong Thánh lễ. Đây là một ơn gọi được Thiên Chúa kêu mời dành cho những người có tố chất và khả năng nói và đọc trước công chúng, để họ trở thành tác viên phụng vụ trong chức năng công bố Lời Chúa. Họ có sứ mạng làm cho Thiên chúa hiện diện đối với cộng đoàn trong phần Phụng vụ Lời Chúa. Họ có thể là người lãnh tác vụ đọc sách hoặc là người đã được chọn lựa, huấn luyện và chỉ định làm đọc viên Sách Thánh. Họ thuộc về một đội hay một nhóm những người chuyên đọc Sách Thánh của cộng đoàn hay giáo xứ, chứ không phải bị chỉ định đột xuất.


1/- Những đòi hỏi và chuẩn bị công bố Lời Chúa
Vì là người công bố và chuyển đạt Lời Chúa cho cộng đồng tín hữu, cho nên ngoài thái độ cung kính và cách ăn vận, phục sức đứng đắn chỉnh tề, độc viên còn phải thấu hiểu bài đọc và có khả năng truyền thông Lời Chúa.
Để có thể hoàn thành chức năng của mình một cách hoàn hảo và thích hợp, độc viên cần:
     + Rèn luyện kỹ năng đọc trước công chúng.
     + Siêng năng suy niệm Lời Chúa.
     + Chuẩn bị trước để thấu hiểu và cảm nhận được Bài đọc.
     + Ý thức và hiểu biết về tác vụ đảm nhận và tầm quan trọng của tác vụ này.
     + Nỗ lực tận dụng mọi phương thế để ngày càng gia tăng sự hiểu biết và lòng mến yêu Sách Thánh.
Dựa theo tiêu chuẩn là nên công bố Sách Thánh “một cách thông minh, truyền cảm và thẩm mỹ” sau đây là những đòi hỏi cụ thể liên quan đến việc đọc Sách Thánh:
     + Giọng nói phù hợp với từng loại bản văn. 
     + Phát âm chính xác và rõ ràng.
     + Công bố một cách thông minh như đọc theo nhóm từ, tốc độ vừa phải, dừng đúng chỗ…
     + Lên giọng và xuống giọng cũng như thay đổi nhịp độ tùy chỗ nhằm làm rõ hơn ý nghĩa của bản văn, ví dụ như phân biệt giữa câu hỏi và lời khuyên răn, lời khiển trách, giữa tiếng kêu la xin xót thương và lời ban tặng…; phân biệt giữa các thể loại văn chương của Bài đọc như câu truyện, thư tín hay thi ca.
     + Biết nghệ thuật nói với thính giả chứ không phải nói đến họ, biết tiếp xúc bằng mắt với thính giả ở những chỗ cần thiết, nhất là khi bắt đầu (Lời Chúa trong sách...) và lúc kết thúc bài đọc (Đó là Lời Chúa).
     + Thính giả có thể dễ dàng nghe được.
     + Trước khi công bố, cố gắng để hiểu rõ bản văn.
     + Thực tập trước đó vài lần.
     + Công bố với sự xác tín và cảm nhận để Lời Chúa đến được trái tim của người nghe.
     + Nếu có thể, luyện khả năng ca hát.
     + Thực tập việc sử dụng hệ thống khuyếch đại âm thanh.
     + Xem xét lại sau mỗi lần công bố một cách có phê phán và với tinh thần cầu tiến.
     + Nhiệm vụ của người đọc sách là công bố ý nghĩa của sứ điệp thánh theo khả năng tốt nhất của mình.
     + Phải tránh lôi kéo người ta hướng về mình hoặc bởi quần áo hoặc bởi cách thức thi hành của mình như mọi hình thức diễn kịch: diễn xuất ra khuôn mặt, ra cử điệu, hay thay đổi giọng theo từng nhân vật khác nhau…
Việc chuẩn bị kỹ càng của độc viên trước khi công bố sẽ làm cho Lời Chúa trở nên hấp dẫn và ý nghĩa hơn cho cộng đoàn phụng vụ và giúp họ thu được nhiều lợi ích từ đó. Độc viên không những cần chuẩn bị công bố mà còn phải chuẩn bị về mặt thiêng liêng:
     + Bắt đầu bằng việc cầu nguyện với Chúa Thánh Thần để xin được trở thành khí cụ khiêm tốn trong bàn tay của Chúa và cảm nghiệm sự hiện diện của Chúa.
     + Đọc bản văn Sách Thánh lớn tiếng, chậm rãi.
     + Đọc bản văn nhiều lần, nghiên cứu bản văn với sự trợ giúp của các chú giải Kinh Thánh.
     + Đọc những đoạn liền trước và liền sau bản văn sẽ công bố để hiểu rõ hơn bối cảnh lịch sử và mục đích của tác giả.
     + Cầu nguyện với bản văn Sách Thánh trong những ngày trước khi công bố để xin Chúa nói với bản thân qua bản văn.
2/- Cách thế thi hành nhiệm vụ.
Di chuyển đến giảng đài một cách không vội vã chỉ sau khi vị chủ tế kết thúc lời tổng nguyện hoặc ít là khi ngài bắt đầu đọc câu kết “Chúng con cầu xin…”
- Khi đến giảng đài, đứng thẳng người và giữ đầu cho ngay, chỉnh micro phù hợp với tầm thước của mình (để không kiễng chân lên hay cúi mặt xuống quá khi đọc), dừng và chờ cho toàn thể cộng đoàn ngồi xuống, nhìn vào cộng đoàn và chờ thêm vài giây nữa để lôi kéo sự chú ý của họ về phía giảng đài rồi mới bắt đầu công bố.
- Hai bàn tay cầm sách như muốn ôm lấy cuốn sách, hoặc có thể để sách trên giảng đài.
- Không bao giờ được bắt đầu bằng câu “bài đọc I” hay “bài đọc II”, cũng không đọc những câu được trích từ bản văn hay tóm tắt bản văn sắp công bố.
- Sau khi đọc câu “Lời Chúa trong sách…” thì dừng laị vài giây rồi mới đọc chính bản văn Sách Thánh.
- Kết thúc bài đọc, dừng lại vài giây rồi mới cất tiếng nói “Đó là Lời Chúa”. Đợi cho cộng đoàn đáp lại “Tạ ơn Chúa” xong thì mới di chuyển về lại chỗ ngồi. Một người khác có thể thay thế đọc hay hát “Đó là Lời Chúa”.
- Người đọc bài đọc I có thể đọc hay hát Thánh vịnh đáp ca luôn. Thế nhưng, trừ khi thiếu nhân sự trầm trọng, hãy dành việc hát hay đọc Thánh vịnh đáp ca cho một người khác thì tốt hơn. Người đọc bài đọc I có thể đọc bài đọc II chứ không đọc hay hát Thánh vịnh Đáp ca. Tốt hơn nữa, dành bài đọc II cho một người thứ III công bố.
- Đến và rời giảng đài, độc viên nên cúi chào bàn thờ.
- Cách nói rõ ràng, dễ nghe và thông minh là phương thế đầu tiên để truyền thông Lời Chúa đến cho cộng đoàn.
- Nếu có hát Lời Chúa, phải tôn trọng vần điệu và sự tinh túy của ngôn ngữ cũng như nêu bật ý nghĩa của Lời Chúa chứ không làm cộng đoàn khó nghe khó hiểu Lời.
3/- Chỗ ngồi.
Tại số 101, quy chế tổng quát Sách Lễ Rôma có nói đến trường hợp vắng thầy đọc sách thì giáo dân khác có thể được ủy nhiệm để công bố bài đọc Lời Chúa.Tuy nhiên, phải chú ý rằng chức năng thay thế ở đây chỉ quy chiếu đến việc công bố bài đọc chứ không phải các chức năng khác. Các chức năng khác của thầy đọc sách hay thầy giúp lễ khi tham gia vào cử hành phụng vụ khiến cho họ nên ngồi trong cung thánh. Còn một giáo dân, nếu chỉ có nhiệm vụ lên đọc Sách Thánh thì nên ngồi ở hàng ghế bên ngoài cung thánh, càng gần cung thánh bao nhiêu càng tốt bấy nhiêu, và đi lên giảng đài đọc Sách Thánh từ đó.
Nhưng giả sử họ được sắp xếp ngồi trong cung thánh cũng chẳng sao bằng cách đi theo đoàn rước nhập lễ cùng với chủ tế và các tác viên phụng vụ khác rồi ngồi trong cung thánh luôn cho tới khi hoàn thành chức năng công bố Lời Chúa. Họ không nên ngồi nơi quá xa hoặc bị che khuất hầu có thể dễ dàng quan sát các cử hành diễn ra trên cung thánh và di chuyển mau chóng đến giảng đài để thi hành nhiệm vụ.
4/- Y phục.
Y phục cho thừa tác viên đọc Sách Thánh có thể là áo alba (trắng dài), hoặc thường phục nam áo trắng cà-vát nữ áo dài truyền thống Việt để được xứng đáng, hay tu phục của các dòng tu (nếu là tu sĩ) nhằm mục đích vừa diễn tả chức vụ của thừa tác viên vừa diễn tả lòng tôn kính và trang trọng của nghi lễ Thánh.
Sưu tầm

SUY NIỆM LỜI CHÚA: CHÚA NHẬT 29 THƯỜNG NIÊN - NĂM C

SUY NIỆM LỜI CHÚA
Chúa Nhật 29 Thường Niên - Năm C

I/ LỜI CHÚA
                                                   Tin Mừng Theo Thánh Luca (Lc 18: 1-8)
Khi ấy, Đức Giêsu kể cho các môn đệ dụ ngôn sau đây, để dạy các ông phải cầu nguyện luôn, không được nản chí. Người nói: “Trong thành kia, có một ông quan toà. Ông ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì. Trong thành đó, cũng có một bà goá. Bà này đã nhiều lần đến thưa với ông: “Xin ngài bênh vực tôi chống lại kẻ kiện tôi’. Một thời gian khá lâu, ông không chịu. Nhưng cuối cùng, ông ta nghĩ bụng: “Dầu rằng ta chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì, nhưng mụ goá này quấy rầy mãi, thì ta bênh vực mụ cho rồi, kẻo mụ ấy cứ đến hoài, làm ta nhức đầu nhức óc’. Rồi Chúa nói: “Anh em nghe quan toà bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn? Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ. Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”
II/ SUY NIỆM
Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy "các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí". Dụ ngôn có hai vai :
- bà góa : trong xã hội do thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.
- thẩm phán : lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.
* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.
Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng : "Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?".
III/ DẪN GIẢI NỘI DUNG
 1. Vai trò của cầu nguyện
Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào?
Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này ?
- Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.
- Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.
- Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói "Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con".
Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa ; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện. Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.
Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện :
- Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được ?
- Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.
- Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.
2. Cầu nguyện luôn
Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau : "Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí". Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.
Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v.v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.
Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật : "Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi".
Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì :
           - Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.
           - Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.
         - Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.
          - Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.
          - Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.
3. Hai tư thế cầu nguyện
          Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.
Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.
Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy.
4. Cầu thay nguyện giúp
           Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng : "Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé".
         Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.
           Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. HọÏ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: "Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng !"
Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé : Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ "chỉ tiêu" chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.
Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ : "Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí" (Lc 18,1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augustinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.
Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.
Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phaolô dạy : "Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa" (Rm 8,21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết : "Pytago. đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả". Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.
Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở : "Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng ?" (Lc 18,8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.
Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo. Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.
5. Mảnh suy tư
a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.
- Hoa trái của cầu nguyện là đức tin
- Hoa trái của đức tin là tình yêu
- Hoa trái của tình yêu là phục vụ
- Và hoa trái của phục vụ là bình an.
b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.
- Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.
- Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.
c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.

 Website: Tổng giáo phận TPHCM